<< Chapter < Page Chapter >> Page >

Singh và Agrez (2002) cho rằng ethylen có vai trò quan trọng trong sự đậu trái xoài. Thí nghiệm trên giống xoài Kensington Pride tác giả thấy rằng việc phun các chất ức chế quá trình sinh tổng hợp ethylen như aminoethyoxyvinylglycine (AVG), aminooxyacetic acid (AOA), Cobalt sulphate (CoSO4) và silver thiosulphate (STS) có hiệu quả lên sự đậu trái, giữ trái và làm tăng năng suất hơn so với việc phun các chất có tác dụng ức chế sự hoạt động của ethylen, trong khi phun ethrel có thể làm giảm sự đậu trái đến 76%. Hiệu quả làm tăng năng suất của các chất ức chế quá trình sinh tổng hợp ethylen hoặc ức chế sự hoạt động của ethylen có thể do hiệu quả cải thiện sự giữ trái. Từ kết quả thí nghiệm, tác giả thấy rằng phun Cobalt sulphate (CoSO4) ở nồng độ 200 ppm ở giai đoạn phát hoa phát triển hoàn toàn, trước khi hoa nở có hiêu quả làm cải thiện sự đậu trái, số trái/cây và năng suất cây xoài.

Hình 6.5 Phát hoa xoài cát Hòa Lộc giai đoạn “nở rộ” (7-10 ngày sau khi nở hoa), những hoa nở đầu tiên đã hình thành trái non, còn gọi là giai đoạn “trứng cá”

* Sự rụng trái non

Số trái còn lại trên cây bị ảnh hưởng bởi tình trạng dinh dưỡng của cây và điều kiện thời tiết. Năng suất trái mùa trước, tỉa cành không đều, và việc bón lân quyết định khả năng mang trái của cây xoài (Chang và ctv., 1982). Sharma và Singh (1970) cho biết trên cùng một phát hoa, những hoa xuất hiện sau thường đậu trái tốt hơn những hoa xuất hiện trước do điều kiện khí hậu thích hợp hơn trong điều kiện ở Ấn Độ. Trên giống xoài Dashehari, khi trái xoài bằng hột cải có thể được xem là sự đậu trái xoài. Sau đó, bầu noãn phát triển, chuyển từ màu xanh hơi vàng sang màu xanh và có thể dễ dàng phân biệt. Một tuần lễ sau, trái xoài bằng hạt đậu và ở thời điểm nầy sự thụ tinh và sự phát triển của bầu noãn có thể dễ dàng phân biệt. Tuy nhiên, một số hoa không thụ tinh do thời tiết bất lợi cũng có thể phát triển đến ngày thứ 13, kích thước trái gấp 2,5 lần ở thời điểm thụ phấn. Những trái nầy thường có màu xanh đậm, bị méo và phát triển theo trinh quả sinh cho đến khi trái bằng hòn bi thì không phát triển nữa và rụng đi. Đây là đợt rụng sinh lý lần thứ nhất, đợt rụng trái non lần thứ hai vào khoảng 21-28 ngày sau khi đậu trái và đợt rụng thứ ba vào khoảng 35-42 ngày sau khi đậu trái. Lê Thị Trung (2003) khi khảo sát sự rụng trái non trên giống xòai cát Hòa Lộc đã kết luận rằng sự rụng trái trái non xãy ra theo hai đợt: Đợt 1 ở giai đoạn 7 ngày sau khi đậu trái và đợt 2 khi trái bắt đầu giai đoạn tăng trường nhanh (3 tuần sau khi đậu trái). Tác giả cũng tìm thấy auxin và cytokinin có tác dụng cản sự rụng trái non trong điều kiện ngoài đồng và khi áp dụng các chất điều hòa sinh trưởng ngọai sinh đã làm tăng khoảng 30% số trái so với đối chứng, trong khi áp dụng gibberellin ở nồng độ 20 mg/L trong giai đoạn 7 và 10 ngày sau khi đậu trái kích thích sự rụng trái. Mối liên hệ giữa sự rụng trái non và các chất điều hòa sinh trưởng được Chadha (1993) thể hiện ở Bảng 6.1.

Bảng 6.1 Sự liên quan giữa sự rụng trái non và các chất điều hòa sinh trưởng trong trái (Chadha, 1993)

Get Jobilize Job Search Mobile App in your pocket Now!

Get it on Google Play Download on the App Store Now




Source:  OpenStax, Xử lý ra hoa. OpenStax CNX. Jul 29, 2009 Download for free at http://cnx.org/content/col10800/1.1
Google Play and the Google Play logo are trademarks of Google Inc.

Notification Switch

Would you like to follow the 'Xử lý ra hoa' conversation and receive update notifications?

Ask