<< Chapter < Page Chapter >> Page >

Platôn vạch ra những hạn chế và khiếm khuyết của nghệ thuật: thứ nhất, nó không có giá trị nhận thức thế giới chân chính; thứ hai, nó không chỉ tái hiện những cái đẹp đơn lẻ mà tái hiện cả cái không xứng đáng, cái xấu, cái tồi tệ, cái ngu xuẩn, hèn nhát, bi lụy … vì thế, chừng nào nghệ thuật còn thuộc lĩnh vực họat động cảm tính, chừng đó nó không đáng hiện diện trong Nhà nứơc lý tưởng.

Đại biểu lớn nhất trong số các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại là Arixtốt (384 – 322 TCN), người phê phán kịch liệt Platôn. Ông giao động giữa 2 dòng duy tâm và duy vật, nhưng do không nghi ngờ gì về tính hiện thực của thế giới xung quanh nên những tư tưởng mỹ học của ông mang xu hướng duy vật.

Arixtốt thừa nhận các tiêu chí cơ bản của vẻ đẹp mà những người đi trước đã đưa ra như tính quy mô có trật tự, hài hòa. Dấu hiệu tối quan trọng của cái đẹp mà Arixtốt nhấn mạnh là sự chỉnh thể: phải có đầu, có giữa, có cuối, phải liên kết giữa các bộ phận trong chỉnh thể một cách hưũ cơ.

Arixtốt không thừa nhận sự đồng nhất cái đẹp với cái có ích; cái có ích chỉ ở hành vi, hành động, trong khi đó cái đẹp có cả trong sự tĩnh tại.

Arixtốt quan niệm nghệ thuật là sự tái tạo hiện thực, mô phỏng lại hiện thực. Sự mô phỏng tiến hành thông qua nhịp điệu, ngôn từ, giai điệu – và nó có mặt trong tất cả các loại nghệ thuật từ tạo hình đến ngôn từ, trong cả thi ca lẫn âm nhạc. Ông cho các loại hình nghệ thuật được phân biệt bởi các phương thức mô phỏng: âm thanh cho ca hát, âm nhạc; màu sắc và hình thức cho hội họa và điêu khắc; nhịp điệu chuyển động cho các nghệ thuật múa; ngôn từ và âm lực thi ca; các loại hình còn được chia theo nghệ thuật vận động (thi ca, âm nhạc, múa) và nghệ thuật tĩnh tại (hội họa, điêu khắc).

Nghệ thuật không có giá trị độc lập, nó gắn bó với đời sống đạo đức của con người, nó gột rửa con người khỏi vẩn đục. Tác dụng gột rửa của nghệ thuật sẽ giúp con người vượt qua cơn xúc động, nỗi sợ hãi và có khả năng chống đỡ lại hoàn cảnh bất hạnh.

Tư tưởng mỹ học thời trung cổ

Mỹ học thời trung cổ bắt đầu vào thế kỷ III và kết thúc vào cuối thế kỷ XIII, nó hình thành trong sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Châu Âu, từ sự phản kháng có tổ chức của tầng lớp nô lệ. Những cuộc nổi dậy liên tục xảy ra và lần lượt bị thất bại, do vậy niềm tin vào bản thân con người bị mất dần và cùng với nó, niềm tin vào tôn giáo từng bước được củng cố.

Ở thời kỳ Trung cổ, chỉ những gì cần thiết đối với tôn giáo mới có điều kiện phát triển, còn những gì không có lợi cho tôn giáo đều bị kiềm chế. Vì vậy, thành tựu văn hóa cao nhất thời kỳ này có thể coi là sự hoàn chỉnh các bộ kinh Kitô giáo và các phong cách kiến trúc chính: phong cách Bigiăngxtanh (pha trộn nhà thờ và lâu đài như nhà thờ Xan Sôphi, Xan Vuzal), phong cách Rômanh (pha trộn nhà thờ và pháo đài như nhà thờ Voócmơ, thành phố Cátxatson), phong cách gôtích (nhà thờ Rôma). Trong tình hình ấy, tư tưởng mỹ học chính thống không thể là nô lệ cho tư tưởng tôn giáo.

Nhà tư tưởng điển hình có nhiều quan điểm mỹ học trong giai đoạn đầu của thời kỳ Trung cổ là Ôguýtxtanh (354 – 430), vị giáo chủ, đồng thời là nhà văn, triết gia nổi tiếng này là trụ cột của thần học Cơ đốc giáo. Ông cho rằng toàn bộ thế giới là do thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức cũng bởi thượng đế. Mặc dù vậy, Ôguýtxtanh vẫn thấy được các vẻ đẹp đơn lẻ như thân thể con người, sự rực rỡ của ánh sáng, vẻ đẹp của âm điệu, mùi thơm của cỏ cây hoa lá được thượng đế sáng tạo mà đáng tối cao lại không đánh giá đúng. Ông đi đến kết luận rằng chỉ có thượng đế là vĩnh viễn, là vẻ đẹp tối cao, vẻ đẹp tuyệt đối mà thôi.

Get Jobilize Job Search Mobile App in your pocket Now!

Get it on Google Play Download on the App Store Now




Source:  OpenStax, Đại cương mỹ học - mác lê nin. OpenStax CNX. Jul 31, 2009 Download for free at http://cnx.org/content/col10868/1.1
Google Play and the Google Play logo are trademarks of Google Inc.

Notification Switch

Would you like to follow the 'Đại cương mỹ học - mác lê nin' conversation and receive update notifications?

Ask