<< Chapter < Page Chapter >> Page >

Ðối với kiểm tra kiểu động thì sự chuyển đổi kiểu tự động được diễn ra tại điểm mà sự không tương thích kiểu được tìm thấy trong quá trình thực hiện chương trình. Ðối với sự kiểm tra kiểu tĩnh thì một mã phụ sẽ được xen vào trong chương trình đích dùng để gọi tới hàm biến đổi kiểu tại điểm thích hợp trong quá trình thực hiện.

Chuyển đổi kiểu tự động giúp người lập trình khỏi mọi lo lắng về sự sai kiểu và tránh việc gọi tới một số lượng lớn các phép biến đổi kiểu tường minh trong chương trình. Tuy nhiên chúng ta nên tránh việc chuyển đổi kiểu bằng cách viết các phép toán đúng kiểu. Chẳng hạn trong lập trình thay vì viết lệnh x := 1 (với x là biến số thực) ta nên viết x := 1.0, với lệnh trước thì khi thực hiện phải có một sự chuyển đổi kiểu tự động còn với lệnh sau thì không cần nên thời gian thực hiện sẽ nhanh hơn.

Gán và khởi tạo

Phép gán

Gán trị cho biến là sự lưu trữ giá trị dữ liệu vào trong ô nhớ của biến đó.

Gán trị là một phép toán cơ bản trong các NNLT. Nó dùng để thay đổi sự liên kết của giá trị với ÐTDL.

Nói chung các ngôn ngữ khác nhau thì phép gán cũng khác nhau.

Sự khác nhau đầu tiên là khác nhau về cú pháp, chẳng hạn ta có một số cú pháp lệnh gán như sau:

A := B(Pascal hay Ada)

A = B(C, C++, Fortran, PL/1 và SNOBOL4)

MOVE B TO A(COBOL)

A<- B(APL)

(SETQ A B)(LISP)

Sự khác nhau thứ hai là kết quả trả về của phép gán trị. Nói chung trong các ngôn ngữ, lệnh gán trị không trả về kết quả. Chẳng hạn trong Pascal, đặc tả phép gán là Phép gán (:=) Type1 x Type2 ->Void với sự hoạt động: Ðặt giá trị được chứa trong đối tượng dữ liệu Type1 thành bản sao của giá trị được chứa trong đối tượng dữ liệu Type2 và trả về một kết quả có kiểu void (có thể hiểu là không có kết quả trả về).

Trong một số ngôn ngữ như C, C++ và LISP, phép gán trả về trực tiếp một kết quả là một bản sao của giá trị được gán. Chẳng hạn trong C, sự đặc tả phép gán là

Phép gán (=) Type1 x Type2 ->Type3 với sự hoạt động: Ðặt giá trị được chứa trong đối tượng dữ liệu Type1 thành bản sao của giá trị được chứa trong đối tượng dữ liệu Type2 và tạo ra một ÐTDL mới Type3 chứa bản sao giá trị của Type2, trả về Type3 như là một kết quả.

Vì phép gán trong Pascal không trả về một kết quả nên chúng ta chỉ sử dụng chức năng “gán trị” của nó mà thôi. Vì không có kết quả trả về nên mỗi một lệnh ta chỉ có thể viết một phép gán, chẳng hạn để gán giá trị 10 cho hai biến A và B ta phải viết hai lệnh B := 10; A := B; hoặc A := 10; B := 10;

Ngược lại khi lập trình bằng ngôn ngữ C, vì phép gán có trả về một kết quả nên ta có thể viết: A = B = 10; Trong đó phép gán B =10 vừa thực hiện chức năng “gán trị” giá trị 10 cho B vừa trả về 1 giá trị để gán tiếp cho A. Giá trị được trả về như là một kết quả của phép gán B cho A bị bỏ qua vì lệnh không chứa một phép toán nào sau đó nữa.

Phép gán trong ngôn ngữ C++ cũng có cùng cơ chế như trong C, vì vậy khi thiết kế toán tử gán cho một đối tượng nào đó (Overloading toán tử = trong khi xây dựng một lớp nào đó) ta phải viết:

<tên lớp>&operator= (const<tên lớp>&Obj)

{

// Thực hiện việc gán dữ liệu;

Get Jobilize Job Search Mobile App in your pocket Now!

Get it on Google Play Download on the App Store Now




Source:  OpenStax, Cấu trúc dữ liệu. OpenStax CNX. Jul 29, 2009 Download for free at http://cnx.org/content/col10766/1.1
Google Play and the Google Play logo are trademarks of Google Inc.

Notification Switch

Would you like to follow the 'Cấu trúc dữ liệu' conversation and receive update notifications?

Ask