<< Chapter < Page Chapter >> Page >

2.3.1. trường hợp sử dụng đại từ nhân xưng "one"

Xem xét các ví dụ sau:

- One may be left with choice between different bond lengths (có thể lựa chọn các chiều dài liên kết khác nhau).

- When one considers the number of species of animals, birds, microorganism, he begins to wonder perhaps how there could be so many millions of different proteins (Khi xem xét số lượng loài động vật, chim muông, vi sinh vật, ta bắt đầu ngạc nhiên là làm thế nào có thể có bao nhiêu triệu protein khác nhau).

Đối với đại từ nhân xưng "one" khi dịch sang tiếng Việt ở hai ví dụ nêu trên ta thấy người dịch loại bỏ từ "one". Điều này tương ứng với cách rút bỏ chủ ngữ vốn rất phổ biến trong tiếng Việt để diễn đạt ý nghĩa nhân xưng khái quát. Ở một số văn bản, đại từ "he" thường thay thế cho "one" tránh sự lặp lại nhưng chức năng vẫn là một đại từ vô nhân xưng, trường hợp này nên dịch là "người ta" hay "ta".

2.3.2. cấu trúc bị động

Trong văn bản KH-KT, cấu trúc bị động thường được sử dụng rất phổ biến để mô tả, giải thích các hiện tượng cụ thể hay quá trình và cho phép ta loại bỏ ngôi thứ nhất. Loại cấu trúc này khi chuyển sang tiếng Việt thường được thay thế bằng cấu trúc chủ động hay có thể dùng dạng bị động tương đương. Xem các ví dụ sau:

- He was shown the equipment (người ta chỉ cho anh ta thiết bị mới).

- The reaction is run in the cold (phản ứng xảy ra trong điều kiện lạnh).

-The temperature is risen (người ta tăng nhiệt độ).

Quan trọng hơn cả là việc dịch các câu bị động mà thông tin được xét ở góc độ của lý thuyết sự phân đoạn thực tại câu. Cấu trúc bị động được dùng để báo hiệu phần thuyết (rheme) và nhằm tạo ra một trật tự khách quan. Xem ví dụ:

- This method of nitrotion has been reported by several scientists.

Nếu ta dùng cấu trúc chủ động để dịch câu trên thì "phương pháp nitrô hóa này" là cái đã biết (given information) nhưng lại nằm trong phần thuyết (rheme) do đó "không tự nhiên bằng nếu được đặt vào vị trí chủ đề một câu bị động. "phương pháp nitrô hóa này" đã được mô tả bởi một số nhà nghiên cứu. Song song với nguyên tắc trên (tin cũ trước tin mới) nhiều tác giả các văn bản KH-KT tiếng Anh ưa thích việc đặt các cấu trúc "dài hơn" và "nặng hơn" ở cuối mệnh đề (end-weight). Điều này lý giải tại sao người ta chọn cấu trúc bị động chứ không phải cấu trúc chủ động.

- The Robosaurus is controlled by a human pilot who sits inside its head.

Vì vậy khi gặp phải cấu trúc trên, thì việc sử dụng cấu trúc bị động để dịch sang tiếng Việt sẽ tự nhiên hơn nhiều so với cấu trúc chủ động.

2.3.3. vai trò các trạng ngữ biểu thị thái độ

Quan điểm của tác giả đối với mệnh đề thông tin đi liền phía sau (disjuncts).

Ở văn bản KH-KT các trạng ngữ biểu thị thái độ của tác giả với thông tin của phát ngôn tiếp theo như "admittedly", "announcedly", "reportedly", "apparently",... được sử dụng khá phổ biến. Các trạng ngữ này thường thay cho câu vô nhân xưng như "it is admitted", "it is announced", "it is apparently". Thông thường người dịch văn bản KH-KT thường bỏ qua vai trò của các trạng ngữ này hoặc xem nó như một trạng ngữ bổ nghĩa. Tuy nhiên đối với người dịch có năng lực sẽ dễ dàng nhận ra mối quan hệ giữa tác giả từ các trạng ngữ này đối với văn bản. Ở góc độ người giao tiếp diễn ngôn (tenor), ta thấy nghĩa các trạng ngữ này vắng bóng cá nhân tác giả thay vào đó là "số đông". Xem các ví dụ sau:

- These interpretations are admittedly conjectural (người ta cho rằng các lý giải này là giả định).

- This is, announcedly, a very powerful reaction (theo thông báo đây là chất phản ứng rất mạnh).

2.4. phương thức diễn ngôn

Điểm lưu ý cuối cùng là phương thức diễn ngôn (mode of discourse): chỉ vai trò của ngôn ngữ đang hoạt động (diễn văn, tiểu luận, diễn thuyết, các hướng dẫn...) và kênh truyền đạt của ngôn ngữ (nói, viết). Sự lựa chọn của ngôn ngữ luôn bị chi phối bởi hai chiều nói trên. Ở đây sự phân biệt cơ bản là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trong ngôn ngữ nói, theo Bell [2] trọng tâm thông tin có thể thay đổi theo ngữ điệu và ý định người nói thường được chỉ ra thông qua ngữ điệu, cử chỉ, vẻ mặt và các kênh bổ trợ đó lại vắng mặt trong ngôn ngữ viết. Vì vậy, người viết thường phải nhấn mạnh những bộ phận của văn bản bằng các trạng ngữ chỉ cho người đọc đọc chúng như thế nào (ví dụ: "unfortuanately"..., "to be frank"... hoặc các cấu trúc chêm xen (cleft sentences) để nhấn mạnh thông tin. Đây chính là đặc điểm quan trọng người dịch phải biết khi dịch một văn bản KH-KT nói hay viết.

Get Jobilize Job Search Mobile App in your pocket Now!

Get it on Google Play Download on the App Store Now




Source:  OpenStax, Những điểm cần lưu ý khi dịch một văn bản khoa học-kỹ thuật từ tiếng anh sang tiếng việt. OpenStax CNX. Aug 07, 2009 Download for free at http://cnx.org/content/col10896/1.1
Google Play and the Google Play logo are trademarks of Google Inc.

Notification Switch

Would you like to follow the 'Những điểm cần lưu ý khi dịch một văn bản khoa học-kỹ thuật từ tiếng anh sang tiếng việt' conversation and receive update notifications?

Ask